Final Fantasy Wiki
Register
Advertisement
Danh sách địa điểm

Final Fantasy
Final Fantasy II
Final Fantasy III
Earth/ Red Moon/
True Moon (IV)
Planet R (V)
World of Balance/
World of Ruin (VI)
The Planet (FFVII)
Final Fantasy VIII

Gaia/Terra (IX)
Spira (X, X-2)
Vana'diel (XI)
Ivalice (XII, RW, T, TA, TA2)
Gran Pulse/Cocoon (XIII)
Oriens (Agito XIII)
Hydaelyn (XIV)
Crystal Chronicles
Mystic Quest
Earth/Wonderland (Unlimited)
Earth (The Spirits Within)

Để hiểu lịch sử vùng đất này, xem: Niên đại Final Fantasy X
Thế giới của Final Fantasy X được gọi là Spira (スピラ Supira) và đây là nơi mà câu chuyện của Final Fantasy XFinal Fantasy X-2 diễn ra.

Cảnh báo: bên dưới là những điều mà tiết lộ trước sẽ làm mất thú vị khi chơi game, chỉ nên đọc khi đã chơi qua một lần. (Bỏ qua đoạn này)

Rất giống một hòn đảo khổng lồ, Spira bao gồm một phần lục địa chính cùng với vài đảo nhỏ hơn về phía đông, phía tây và phía nam. Spira bao gồm nhiều kiểu khí hậu đa dạng: những hòn đảo nhiệt đới BesaidKilika bên bờ đại dương, khí hậu ôn đới ở khu vực Mi'ihen HighroadMushroom Rock, vùng địa cực ở Macalania và núi Mt. Gagazet, rừng rậm Macalania bạt ngàn và sa mạc Bikanel nóng bỏng.

Ffxmap

Bản đồ Spira


Kinh tế[]

Ugcoins

Đồng Gil ở Spira

Tiền tệ[]

Spira sử dụng đồng gil làm đơn vị tiền tệ chính thức, nhưng theo những bằng chứng do người Al Bhed tìm được ở sa mạc Bikanel thì có thể Spira đã sử dụng tiền vàng trong quá khứ.

Thương mại[]

Người dân Spira làm các việc như dệt vải, làm việc trong các cửa hàng, quán bar và các cơ quan du lịch, chơi Blitzball, nuôi Chocobos, đi biển, quản lý Shoopuf, làm việc ở các khu vực khảo cổ, làm lính đánh thuê/ thợ săn Sphere cũng như hoạt động trong các bộ phận giải trí. Giả định rằng một số cư dân Spira đánh cá và phát triển sản xuất để cung cấp cho những người dân Spira khác nhu yếu phẩm cần thiết.
Một nghề nghiệp khác được thực hiện dưới dạng tự nguyện là Summoner/Guardian tham gia các chuyến hành hương và những người làm công việc trong các đền thờ.

FFXMAPs

Spira

Địa lý[]

Thế giới Spira được bao phủ phần lớn là nước, chỉ có một lục địa lớn trải dài từ cực nam Spira (có thể nhìn thấy từ xa ở Besaid) đến phía trên đường xích đạo.

Khí hậu[]

Ở khu vực phía nam của lục địa, khí hậu Spira tương tự khí hậu Nam Thái Bình Dương trong thế giới thực. Khí hậu chuyển lạnh khi đến Guadosalam ở phía Bắc (có thể thấy qua trang phục của người Guado và dân bản xứ Bevelle). Có vẻ Macalania ở trên cao, vì trên đường đến Macalania Temple là một vùng băng giá rộng lớn. Dù đây có thể chỉ là ảnh hưởng của fayth Shiva trong đền Macalania, vì có vẻ băng tan sau khi fayth biến mất (minh chứng rõ ràng nhất là hồ băng tan làm ngôi đền chìm xuống), băng không xuất hiện ở thành phố Bevelle kế cận. Ngoại trừ núi tuyết Mt. Gagazet, phía bắc của lục địa có lẽ có khí hậu ôn đới hoặc hơi ấm vì trang phục của cư dân ở đây khá đơn giản.

Động thực vật[]

Spira có hệ động vật độc đáo, bao gồm chủ yếu là fiend, những quái vật hung hãn tấn công người qua đường. Những loài thú khác ở Spira là khỉ, chó, mèo, Chocobosshoopuf. Những loài cây ở Spira đều giống thực vật ở thế giới thực ngoại trừ 3 điểm: Khu rừng thiêng Macalania, hoa huệ mặt trăng (moon lilies) ở Moonflow và những quái vật trông giống thực vật như OchuMalboro (tuy vậy chúng giải phóng pyrefly khi chết, nên việc chúng là thực vật hay fiend vẫn còn tranh cãi).

Các yếu tố văn hóa[]

Spiran Script

Bảng chữ cái Spira

Al Bhed Script

Bảng chữ cái Al Bhed

Yevon

Biểu tượng Yevon

Spira hiện đại khá khác biệt so với Spira trong Cuộc Chiến Thiên Niên Kỷ. Machina, từng một thời phổ biến, bị xa lánh bởi sắc lệnh của Bevelle, và chỉ dân tộc Al Bhed bị xã hội ruồng bỏ là cố gắng lấy lại một ít kiến thức bị mất. Từ một dạng chiến binh phép thuật phổ biến, summoner đã trở thành một đẳng cấp đặc biệt: họ được hưởng nhiều quyền hạn và sự hỗ trợ trên đường hành hương đổi lại là sự hi sinh của họ để đánh đuổi Sin. Đạo Yevon chi phối mọi mặt của cuộc sống ở Spira, tuyên truyền giáo lí của họ và giả làm người thống trị nhân từ của một thế giới đang chết dần - một thế giới chỉ có vài triệu người sinh sống và hầu như mọi công nghệ và tiến bộ xã hội đã ngủ quên trong 1000 năm. Tuy vậy, dưới lớp vỏ thống nhất của đại lục Spira, ngờ vực và những cơn thịnh nộ từ xưa vẫn sôi sục: người ta tự hỏi các phe phái có gây chiến và tiêu diệt lẫn nhau không cho dù không có sự xuất hiện khủng khiếp của Sin để duy trì trật tự? Blitzball là thứ duy nhất đoàn kết toàn thế giới dưới một niềm đam mê chung, môn thể thao này sống sót sau khi Sin đến và được tổ chức thi đấu thường niên ở sân vận động Luca, Blitzball đã thoát khỏi cơn thịnh nộ của Sin phần lón nhờ vào công lao của những chiến binh Crusaders.

Tôn giáo/Chính trị[]

Giáo lý Yevon, được cho là truyền lại từ Yu Yevon cho con gái ông ta, Lady Yunalesca, được thực hiện bởi giáo hội Bevelle để duy trì trật tự bằng cách cho người dân Spira một niềm hi vọng: ngày nào đó họ sẽ thoát khỏi Sin khi họ đã chuộc được "tội lỗi" của mình. Đến khi Yuna khám phá ra sự dối trá của họ: Tòa Thánh Yevon dạy rằng machina bị cấm, rằng Sin là kết quả của lòng kiêu hãnh của con người và việc sử dụng machina trong quá khứ, và Sin chỉ có thể biến mất khi nào con người đạt được sự trong sạch và đã rửa sạch tội lỗi trong quá khứ. Chỉ khi đó, một nghi lễ gọi là "Final Summoning" mới có thể mang lại một thời gian hòa bình ngắn ngủi (gọi là "Calms").

Kết thúc Final Fantasy X, Yuna và những guardian vào bên trong Sin và tiêu diệt tất cả "vật chủ" Aeon, buộc Yu Yevon phải xuất hiện (dưới dạng vật chất bằng cách tập trung năng lượng tâm linh của ông ta), làm cho ông ta có khả năng bị tiêu diệt, lần đầu tiên trong 1000 năm. Họ đã giải phóng sức mạnh của mình, tiêu diệt ông ta và chấm dứt sự kiểm soát của Yu Yevon với Spira. Đến đây, niềm tin của người dân vào tòa thánh Yevon cũng sụp đổ khi Yuna và bạn bè bóc trần những hoạt động mờ ám, thối nát và đạo đức giả của họ.

Hai năm sau, trong Final Fantasy X-2, những lời dạy đạo đức Yevon được hồi sinh dưới hình thức của New Yevon (Tân Yevon) dưới sự chỉ huy của Pháp quan Baralai. Dù cơ bản là một nhánh của đạo Yevon, phái New Yevon không phải là một tôn giáo, mà là một cách sống, phương châm của họ và vị trí đối với sự tiến bộ của Spira là "One thing at a time" (Từng bước một). Không may một phe đối thủ đã xuất hiện, Youth League (Đoàn Thanh Niêm), và sự kình địch của hai phái do đối lập về cách nhìn là nguồn gốc gây ra xung đột ở Spira cho đến khi họ đoàn kết lại sau cuộc khủng hoảng Vegnagun.

Thần thoại[]

Các khái niệm về phép thuật, năng lượng tâm linh, quyền năng của kí ức và tâm linh của người dân liên kết chặt chẽ với nhau trong thế giới Spira và hiệu ứng của chúng thể hiện trong một số tình huống, bao gồm các sự kiện thể thao, nghi thức tôn giáo, công nghệ sử dụng bởi người dân Spira và thậm chí trong một số loài động vật hoang dã trên hành tinh.

Có thể kể ra một số chủ đề và khái niệm, như Pyreflies và liên hệ của chúng với cái chết, các Aeon, Fayth, Sin và giáo lý của Yevon.

Giải trí[]

Công nghệ[]

Machina[]

Việc sử dụng các loại Machina (hay "máy móc" theo cách người Al Bhed thích gọi), bị giáo lí Yevon cấm đoán nghiêm ngặt và vì thế rất ít người ở Spira sử dụng chúng trước khi Sin bị tiêu diệt (ngoại trừ người Al Bhed, những ngôi đền và những Warrior Monks). Sau khi Sin chết, gần như tất cả Spira bắt đầu sử dụng lại để cuộc sống đỡ vất vả hơn, người Al Bhed, dẫn đầu bởi Gippal, thậm chí còn thành lập một "Đảng Cơ Giới" (machine faction) chuyên khai quật và nghiên cứu machina.

Sphere[]

Spheres là những thiết bị giống máy móc dùng để lưu trữ dữ liệu - ghi âm giọng nói, video, kí ức hay các thông tin hữu ích khác. Chúng có dạng hình cầu, vì vậy mới được gọi là "sphere". Dù sphere thực tế là máy móc, chúng được tạo ra từ nước một hồ phép ở rừng Macalania (tức là tạo ra bằng phép thuật). Trên khắp Spira có hàng ngàn sphere bị lãng quên, được những đội thợ săn Sphere truy tìm.

Dân số[]

Hypello drawing

Chủng tộc Hypello

Chủng tộc/Dân tộc thiểu số[]

Cactuar - Những cây xương rồng thông minh, nhạy cảm có thể di chuyển khắp Spira trong suốt cuộc đời của chúng. Chúng nói một thứ ngôn ngữ đặc biệt mà chỉ có một chú nhóc tên Benzo hiểu được. Cactuar là những người bảo vệ sa mạc Bikanel trong nhiều thế hệ.

Ronso - Một chủng tộc hình người giống những con sư tử màu xanh với một sừng trên đầu, giống sừng của summoner Quê nhà của họ ở Mt. Gagazet nơi mà họ tin rằng rất linh thiêng. Họ thường cao hơn và mạnh hơn con người rất nhiều. Có vẻ họ nói tiếng Spira nhưng không tốt lắm.

Guado - Chủng tộc người-cây sống ở Macalania. Họ có tóc xanh lục và có bàn tay quá khổ nhìn như những cành cây. Có vẻ như họ có mối liên hệ tâm linh với khu rừng và sẽ chết nếu khu rừng biến mất. Họ cũng là những người duy nhất có thể làm cho Farplane trở nên an toàn với những người còn sống đến thăm.

Hypello - Chủng tộc lưỡng cư trông giống loài ếch, màu xanh. Nói chung, họ rất lười và kiếm sống bằng cách "chèo đò" qua Moonflow hay làm việc cho Tobli. Mặc dù nói tiếng Spiran , họ thường phát âm hơi dài âm "O" và đọc âm "S" thành "Sh", ví dụ: "Mish Yoona" (thay vì "Miss Yuna"). Nếu không phải là dân Hypello thì rất khó phân biệt đâu là đàn ông và đâu là phụ nữ. Họ sẽ rất giỏi nếu chơi Blitzball, không may (hay là may cho các đội khác) là có quá ít người muốn chơi để có thể lập thành một đội, theo như Maechen nói.

Al Bhed - Gần như giống hệt con người, nói ngôn ngữ đặc thù, cũng gọi là Al Bhed. Khác biệt duy nhất của họ là đồng tử có vòng xoáy, màu mắt xanh lục và yêu Machina. Có vẻ tất cả Al Bhed đều có tóc vàng.

Con người - Chủng tộc thống trị ở Spira. Họ phát triển rộng rãi và sống ở hầu hết các nơi ngoại trừ những vùng có điều kiện khắc nghiệt nhất.


10-shiva-artwork

Aeon Shiva

Thực thể tâm linh[]

Ở Spira có 2 loại thực thể tâm linh "bất tử" có thể đi lại, nói chuyện và trông giống như sinh vật sống. Đó là những hồn ma (Unsent) và Fayth. Ronso, Guado, Hypello, Al Bhed và Con người đều có thể trở thành một trong hai loại này, tùy theo hoàn cảnh cụ thể.
Cũng có 2 loại sinh vật ma thuật ở Spira: các Aeon và các Fiend (quái vật).

Các địa danh trên Spira[]

  1. Besaid
  2. Kilika
  3. Luca
  4. Mi'ihen Highroad
  5. Mushroom Rock
  6. Djose
  7. Moonflow
  8. Guadosalam
  9. Farplane
  10. Thunder Plains
  11. Macalania
  12. Bikanel
  13. Bevelle
  14. Calm Lands

15. Cavern of the Stolen Fayth
16. Remiem Temple
17. Mt. Gagazet
18. Zanarkand
19. Baaj Temple
20. Omega Ruins
21. Cave Ruins
22. Chocobo Ranch
23. Den of Woe
24. Fiend Colony
25. Ruin Depths
26. Via Infinito
27. Yadonoki Tower
28. Coliseum


Kiến trúc[]

Từ nguyên học[]

  • Cái tên Spira (rõ ràng là ám chỉ "spiral" (vòng xoáy)) nhắc đến một trong những chủ đề chính của FFX: vòng tuần hoàn. Auron cũng nói đến vòng xoay chết chóc (Spiral of Death) khi Tidus hỏi tại sao mọi thứ ở Spira đều xoay quanh người chết.

Gallery[]

Advertisement